phong cách nguyễn huy thiệp
Sự xuất hiện của những tấm thiệp theo phong cách facebook đã không còn quá xa lạ với giới trẻ. Tuy nhiên tấm thiệp thôi nôi dễ thương, độc đáo theo phong cách mạng xã hội này vẫn khiến người xem cảm thấy mới mẻ và thích thú. số 1 Nguyễn Huy Tưởng, phường Thanh
Anh Bội khen, rồi nháy mắt bảo Nguyễn Huy Thiệp - thấy chưa? Tớ đã bảo thằng này biết cách xỏ xiên lắm mà". Anh Bội rút túi lấy lá thư trao cho tôi bảo: "Thôi hôm nay chuyện dừng tại đây giờ tớ phải đi có việc". Nguyễn Huy Thiệp và tôi cùng đứng lên. Anh Bội nói thêm: "Hai thằng cứ thế mà viết nhé!".
Kiểu nhân vật chân dung - Nguyễn Tuân; kiểu nhân vật tâm lý - Nam Cao; kiểu nhân vật cảm giác - Thạch Lam, kiểu nhân vật đấu tranh - Nguyễn Minh Châu (trong sáng tác sau năm 1975), kiểu nhân vật CON - NGƯỜI - Nguyễn Huy Thiệp… 6. Phong cách nghệ thuật là nét riêng, đậm
Jackhammer Nguyễn 24-3-2021 Đối với tôi, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp để lại một cách tiếp cận lịch sử đa dạng, không những thoát ra khỏi Cái thiện và cái ác. AdminTD-22/03/2021. Nhã Duy 22-3-2021 Văn chương của Nguyễn Huy Thiệp là về con người. Hoang tưởng phong kiến Đế
Có thể nói, nhìn bề ngoài, ta thấy cách đặt tên tác phẩm của văn học lãng mạn và văn học hiện thực với cách đặt tên tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài chẳng có gì khác nhau.
Meine Frau Flirtet Mit Anderen Männern. Văn học Việt Nam sau 1975 là chặng đường chuyển tiếp nền văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền văn học của thời kỳ hậu chiến. Tính chất chuyển biến này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương thức nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. Đáng lưu ý là từ 1986 trở đi, văn học đã có những chuyển biến khởi sắc trên nhiều phương diện của đời sống văn hóa, tư tưởng Việt Nam. Đây là thời kì khai mở, cởi trói cho giới văn nghệ sĩ trong việc tìm tòi sáng tạo. Đã có những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật gắn với ý thức dân chủ, tự do của người nghệ sĩ; với vấn đề nhân bản khi xuất phát từ các quan niệm đa chiều; và với tính phê phán do nhận thức rõ các hạn chế, tiêu cực của xã hội…Xuất hiện trong giai đoạn văn học này, Nguyễn Huy Thiệp đã khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong dòng mạch chung ấy. Tác phẩm của ông thể hiện rõ quan niệm về con người, về văn hóa và về văn chương nghệ thuật. Song để có được những sáng tác gây chấn động dư luận, ngoài yếu tố cá nhân, Nguyễn Huy Thiệp còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của hiện thực đời sống xã hội lúc bấy giờ. Nguyễn Huy Thiệp thuộc thế hệ nhà văn xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn đăng trên Báo Văn nghệ năm 1986. Tuy nhiên, ông được bạn đọc biết đến như một trong những cây bút xuất sắc của văn xuôi thời kỳ đổi mới. Ông sinh ngày 1950, quê huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Trong suốt giai đoạn tuổi trẻ của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã đi nhiều nơi, làm nhiều nghề, từng lăn lóc nếm trải những đắng cay, vất vả của cuộc sống. Ông nói “Tôi dạy học, làm thợ mộc, thợ nề, thợ gốm, buôn bán, mở nhà hàng…Cuộc sống “bách nghệ” ấy dạy cho tôi nhiều điều và cho tôi nhiều hiểu biết hơn bất kỳ trường học nào” Tạp chí Gia đình số 16. Phải chăng điều đó chính là cội nguồn của một thế giới nhân vật đa dạng, một cái nhìn toàn diện vừa tinh tế trước những vấn đề phức tạp của cuộc sống? Nhưng điều quan trong hơn là chính những vất vả từ cuộc sống đời thường đã thúc đẩy nhu cầu tinh thần của nhà văn, trong đó không loại trừ sự thõa mãn đời sống tâm linh. Vì vậy, nông thôn và những người lao động đã để lại nhiều dấu ấn khá đậm nét trong nhiều sáng tác của ông. "Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ra ở nông thôn…” Những bài học nông thôn. Chính điều này về sau đã giúp cho nhà văn có được vốn kiến thức phong phú về nông thôn, về các vùng miền. Được đào tạo từ chuyên ngành lịch sử, có lẽ điều đó đã giúp Nguyễn Huy Thiệp có vốn văn hóa, vốn lịch sử về các triều đại thật uyên bác. Hơn thế nữa, anh cũng có điều kiện được đi thực tế nhiều nơi. Điều này là cơ sở để anh có những trang viết đậm nét về mảng đề tài về lịch sử và văn học, hơi hướng huyền thoại và cổ tích, xã hội Việt Nam đương đại, xã hội làng quê và những người lao động,… Xuất thân là một nhà giáo, sau này trở thành một nhà văn sinh hoạt văn nghệ tại thủ đô, Nguyễn Huy Thiệp am hiểu khá rõ những đồng nghiệp nhà giáo và nhà văn gần ông. Do vậy, quan điểm của các nhân vật trí thức thường sắc sảo, nhận diện chân được hiện trạng đời sống, nhưng không nên đồng nhất mọi quan điểm của nhân vật trí thức là quan điểm của tác giả bởi tính chất hư cấu và đối thoại đặc trưng của sáng tác ông. Với Nguyễn Huy Thiệp, khoảng thời gian 10 năm sống và làm việc tại vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam. Một môi trường thiên nhiên trong trẻo, có phần hoang dã, tự nhiên từng để lại dấu ấn sâu đậm trong nhiều tác phẩm của ông “Ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ sương mù bàng bạc nên nhìn người và vật chỉ thấy những nét nhạt nhòa đại thể mà thôi. Đây là không khí huyền thoại” Những ngọn gió Hua Tát. Màu sắc huyền thoại còn đậm hơn trong nếp tư duy và truyền thống văn hóa của con người Tây Bắc. So với đồng bào miền xuôi và những nơi Nguyễn Huy Thiệp đã từng sống, từng đi qua, hẳn là một cộng đồng các dân tộc ít người nơi đây sống gần với đời sống tín ngưỡng – tâm linh hơn. Ấy là bởi cuộc sống vật chất của họ còn nhiều gian khó, đời sống tinh thần cũng thiếu thốn. Môi trường đó sẽ tạo điều kiện để tôn giáo và nếp tư duy tôn giáo phát huy. Từ đây có thể giả thuyết rằng ông đã dựa trên những truyền thuyết có thật, nhưng đồng thời có thể khẳng định rằng yếu tố dân gian trong truyện của ông mang tính tác giả rất cao. Không khí gia đình Nguyễn Huy Thiệp cũng là một môi trường nuôi dưỡng nhu cầu tôn giáo – tín ngưỡng. Ông nội và cha mẹ Nguyễn Huy Thiệp là những người theo Đạo Phật. Hẳn là bản thân nhà văn từ nhỏ đã được sống trong không khí huyền diệu, thiêng liêng của tôn giáo; hoặc ít nhất cũng có được những phút giây đối diện lòng mình với thế giới tâm linh, được thấy ở Phật giáo khả năng cứu rỗi tâm hồn, làm dịu bớt những muộn phiền, trắc trở từ sự thăng trầm trong cuộc sống. Hơn thế nữa, ngay chính trong cuộc sống thường nhật của ông cũng mang không khí Tôn giáo. Thật khó có thể tưởng tượng được là Nguyễn Huy Thiệp lại sống trong một ngôi nhà giản dị, yên tĩnh; gian nhà thờ rộng hơn một phòng khách; một khu vườn rộng đầy cây và hoa; một bức tượng phật rất lớn, trầm mặc và trang nghiêm ngự trong vườn. Không gian gia đình mà nhà văn đang sống thật khó tìm thấy giữa lòng Hà Nội đầy náo nhiệt này. Và chính điều này đã làm cho các truyền thuyết trong sáng tác của ông trở nên rất đặc trưng. Nó được xem như là một trong những nét phong cách trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Huy Thiệp suốt đời kiếm tìm nghĩa lý của văn chương, anh cho rằng “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa. Đó là chí thành” Giọt máu. Do vậy, cách của Nguyễn Huy Thiệp là “tạo dựng ra những nhân vật, dựng ra những tình huống để người ta suy ngẫm”. Cách này có tạo nên những đỉnh cao hay vực sâu trong tác phẩm, theo Nguyễn Huy Thiệp, nó chẳng liên quan đến ai khác, ngoài bản thể nhà văn, bởi trước hết, nó nằm trong sự bình yên hay sóng gió của nội tâm người viết. Với Nguyễn Huy Thiệp, giải thiêng huyền thoại về con người, về văn hoá và văn học Việt Nam là quan điểm nhất quán của ông. Trên cơ sở sự nhất quán này, Nguyễn Huy Thiệp bộc lộ một quan niệm nghệ thuật mới về con người. Con người là con người, đôi khi là những con người trần tục. Ngay cả vua chúa, anh hùng, văn nhân thi sỹ, nhà chính trị và các nhân cách văn hoá khác cũng được Nguyễn Huy Thiệp nhìn nhận ở phương diện con người bình thường với đầy những ham hố, dục vọng, những điểm yếu và những thăng hoa về phương diện tinh thần. Từ đó trong thủ pháp thể hiện, ông từ chối cái nhìn sử thi, hướng đến cái ngổn ngang bề bộn của cuộc sống trong thì hiện tại đang tiếp diễn và chưa hoàn tất. Vì hướng đến hiện tại và những nỗi lo âu hiện tại, Nguyễn Huy Thiệp đã phê phán hiện trạng đời sống, ông lưu ý đến sự hư hoại tinh thần của con người trong những định kiến hẹp hòi và những quy tắc văn hoá thấp kém có sức trì níu, kìm hãm sự phát triển của cá nhân con người. Phê phán những con người sống chạy theo tiền tài, dục vọng, thói ích kỷ, vụ lợi, làm hư hoại mối quan hệ người - người. Chính vì vậy mà khi trả lời phỏng vấn, Nguyễn Huy Thiệp thẳng thắn nói “văn chương chỉ là một bộ phận của đời sống” nên “phải đối xử như đời thường”. Trong dòng chảy trôi của lịch sử văn học, đã có khá nhiều câu trả lời như thế nào là sự trung thực trong văn chương. Vũ Trọng Phụng từng nói “Tiểu thuyết là sự thực ở đời”. Nam Cao cũng đã tuyên ngôn “nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối”, nhà văn phải “mở hồn ra để đón lấy tất cả những vang động của đời”. Nhưng nếu chỉ gói sự trung thực vào việc tả chân cuộc sống thì khó tránh khỏi hạn hẹp. Nguyễn Huy Thiệp trong khi quan niệm trung thực như là bản chất của văn chương cũng đã trình khá cặn kẽ, toàn diện thế nào là trung thực “Trung thực với mình, với người, với xã hội, với chữ nghĩa” [41, Với tâm niệm sâu xa ấy, Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn đã đi được, và đi xa trên con đường hiện đại hóa văn học, với một căn cốt dân tộc bền vững. Và ông đã “khuấy đảo” sự bình yên của người đọc bằng cái nhìn tận sâu bên trong bản chất con người. Nhưng điều chúng ta quan tâm hơn, đó là sự “khuấy đảo” của kĩ thuật viết, tức “hình thức lạ”. Tin khác Sự hình thành thể loại Ngâm Khúc trong Văn học Việt Nam tiếp theo Sự hình thành thể loại ngâm khúc trong Văn học Việt Nam Diễn ngôn nam quyền về tính dục trong văn học Việt Nam trước 1975 phần 2 Diễn ngôn nam quyền về tính dục trong văn học Việt Nam trước 1975 phần 1 Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và quan niệm sáng tác
Có sự nghiệp văn chương đồ sộ, được xem là “của hiếm”, là “hiện tượng độc đáo” thậm chí đến mức gây tranh cãi với các thể loại sáng tác gồm truyện ngắn, kịch, tiểu luận, phê bình văn học, song nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thành công nhất là truyện ngắn… Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp 1950 – 2021 Ngày nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã rời cõi tạm sau thời gian dài chiến đấu với bệnh tật, để lại khoảng trống lớn cho văn đàn Việt Nam. Văn học đương đại Việt Nam hơn ba chục năm qua, không thể không nói tới nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với hàng loạt truyện ngắn đưa tên tuổi ông lên hàng các tác gia kiệt xuất của văn chương Việt Nam cuối thế kỷ XX. Trong đó, các truyện “Tướng về hưu”, “Không có vua”… được coi là dấu mốc mở đầu cho thời kỳ văn học đổi mới. Nguyễn Huy Thiệp – người tạo ra bước ngoặt trong văn chương Việt Nam sau 1975 Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày tại huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ, ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên… Vì thế, nông thôn và những người lao động để lại nhiều dấu ấn khá đậm nét trong những sáng tác của ông. Năm 1970, Nguyễn Huy Thiệp tốt nghiệp khoa sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trước khi trở thành người viết chuyên nghiệp, ông đã có nhiều năm là một thày giáo ở miền núi. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Huy Thiệp bắt đầu khá muộn với các truyện ngắn đăng trên báo Văn Nghệ. Tuy nhiên chỉ một vài năm sau đó, cả làng văn học trong lẫn ngoài nước xôn xao những cuộc tranh luận về các tác phẩm của ông. Với hơn 50 truyện ngắn, 10 vở kịch, 4 tiểu thuyết cùng nhiều tiểu luận, phê bình văn học gây chú ý, Nguyễn Huy Thiệp được xem là một “hiện tượng hiếm” của văn đàn Việt Nam. Các thể loại của ông đa dạng từ truyện ngắn, tiểu thuyết đến cả kịch mang hơi hướng huyền thoại, cổ tích và những góc nhìn táo bạo và đa chiều về làng quê, người lao động. Tên tuổi của ông gắn liền với các truyện ngắn như “Tướng về hưu”, “Muối của rừng”, “Không có vua”, “Con gái thủy thần”, “Những người thợ xẻ”, “Thương nhớ đồng quê”, “Sang sông”… và bộ ba truyện ngắn lịch sử gồm “Kiếm sắc”, “Vàng lửa”, “Phẩm tiết”… Ba cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã được xuất bản gồm “Tiểu long nữ”, “Gạ tình lấy điểm”, “Tuổi 20 yêu dấu”. Các tác phẩm “Tướng về hưu”, “Thương nhớ đồng quê” của ông đã được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh và cũng đã gây tiếng vang… Truyện ngắn của ông cũng được dịch sang nhiều ngôn ngữ như Pháp, Anh, Italy, Thụy Điển, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản, Indonesia… Năm 2007, 2008, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp liên tục nhận Huân chương Văn học Nghệ thuật của Pháp và giải thưởng Premio Nonino của Italy. Năm 2015, ông hoàn thành tiểu thuyết “Vong bướm” và quyết định dừng nghiệp sáng tác ở tuổi 65. Nguyễn Huy Thiệp cũng là một trong 50 tác giả có các tác phẩm, cụm tác phẩm xuất sắc được đề nghị xét tặng Giải thưởng Nhà nước trong lĩnh vực Văn học nghệ thuật 2021. Hai tác phẩm được đề nghị xét giải của ông là truyện ngắn “Tướng về hưu” và “Những ngọn gió Hua Tát”. Sinh thời, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khiêm tốn tự nhận ông “là một dạng ăn may, may mắn gặp thời” nhưng ông rất xác tín về “phẩm chất của một nhà văn”. Tác giả “Tướng về hưu” dẫn lại “lời của các cụ ngày xưa” mà ông tâm ý chính là lời nói của nhà bác học Lê Quý Đôn 1726-1784 “Văn học không phải trò chơi, là câu chuyện phiếm. Muốn văn hay phải hiểu biết và từng trải nhiều. Văn chương chữ nghĩa không phải là lời nói suông. Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có núi sông kỳ lạ của thiên hạ thì không thể làm văn được”. Đánh giá về vai trò của Nguyễn Huy Thiệp trong văn chương Việt Nam từ 1975-1991, nhà phê bình La Khắc Hòa nhận định “Nguyễn Minh Châu mở đường đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 với truyện ngắn Bức tranh. Còn Nguyễn Huy Thiệp là người đầu tiên tạo ra bước ngoặt quan trọng của đổi mới”. Nhiều nhà nghiên cứu văn học đã nhận định rằng, một mình Nguyễn Huy Thiệp không làm nên được diện mạo của nền văn học Việt Nam sau 1975 đến nay, nhưng một mình ông lại có thể đào xới lên nhiều vấn đề thuộc về bản chất văn học, tạo nên sức bật khỏi ảnh hưởng văn học trước 1975, từ đó đưa văn học Việt Nam sau 1975 đi xa hơn, vững vàng hơn trên hành trình đổi mới văn học dân tộc, hòa nhập vào biển cả văn học hiện đại của thế giới. Thấm đượm trên ngòi bút sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là tư tưởng triết học tự nhiên, một thứ triết học nguyên sơ, bắt nguồn từ tín ngưỡng phồn thực sâu xa của nền văn hóa cổ Đông Nam Á. Những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp một mặt là sự tiếp nối, bảo lưu nguồn mạch văn học dân gian, mặt khác lại tiếp thu tính hiện đại, đánh dấu bước ngoặt của văn học Việt Nam thời đổi mới, khai phá những chủ đề như cái phi lý, sự cô đơn, tha hóa của xã hội… hòa vào dòng chảy của chủ nghĩa hiện đại trong văn học thế giới thế kỷ XX. Bằng ngòi bút đầy bản lĩnh và tài năng sáng tạo, Nguyễn Huy Thiệp đã làm một cuộc cách mạng trong tư duy nghệ thuật so với truyền thống. Những tác phẩm của ông mang lại cho độc giả một cảm giác vừa thân quen, vừa lạ lẫm, vừa truyền thống, vừa hiện đại. Nét cá tính và phóng khoáng, không bị gò bó bởi khuôn mẫu đã khiến cho văn chương của ông có sức hút một cách kỳ lạ khó có thể diễn tả. Nguyễn Huy Thiệp – “ông vua truyện ngắn” Có sự nghiệp văn chương đồ sộ, được xem là “của hiếm”, là “hiện tượng độc đáo” thậm chí đến mức gây tranh cãi với các thể loại sáng tác gồm truyện ngắn, kịch, tiểu luận, phê bình văn học, song nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thành công nhất là truyện ngắn. Trong các tác phẩm nổi tiếng của ông, nổi bật nhất với “Tướng về hưu” phổ biến lần đầu vào tháng 6-1987 trên Báo Văn nghệ – lúc bấy giờ Nguyễn Huy Thiệp còn là nhân viên Công ty Sách – thiết bị trường học thuộc Bộ Giáo dục và “chưa có tên tuổi gì ở trên văn đàn” như ông tự nhận. Với tác phẩm “Tướng về hưu”, điều độc đáo mà bao nhà nghiên cứu phê bình văn học, giới mộ điệu văn chương và công chúng thưởng thức từng bình phẩm, tranh luận suốt hơn 30 năm qua đó chính là câu chuyện, dòng văn độc đáo, khó ai bắt chước trên một cốt truyện lẫn nhân vật bình thường. Thật vậy, những câu đơn với giọng kể chắt lọc, súc tích của ông đi sâu vào tâm trí người đọc dẫu cho nó có chua chát hay nhẹ nhàng. Hiện thực cuộc sống, số phận con người trong xã hội sau chiến tranh từ đó được phản ánh rất mạnh mẽ bằng thủ pháp văn chương rất riêng của Nguyễn Huy Thiệp. Không có cái gì là đơn giản, một chiều trong thế giới nhân vật trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Nhà nghiên cứu và phê bình văn học Vương Trí Nhàn nhận định “Nếu có một thứ “quả bóng vàng” hay là “cây bút vàng” dành để tặng cho các cây bút xuất sắc hằng năm, thì trong năm 1987 – và cả nửa đầu năm 1988 – người xứng đáng được giải trong văn xuôi ta, có lẽ là Nguyễn Huy Thiệp. Nhắc tới anh, người ta nhớ “Tướng về hưu” gây xôn xao một dạo, bởi cách viết rạch ròi, trần trụi; nhớ Muối của rừng tưởng như không đâu, hóa ra lại đượm nhiều ngụ ý âm thầm; nhớ “Một thoáng Xuân Hương” lịch duyệt mang đậm phong vị kẻ sĩ Bắc Hà; nhớ “Con gái thuỷ thần” lẫn lộn hư thực, và liều lĩnh đến tùy tiện”. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ những người nghèo khổ, hay những người mang hình dạng kì dị… tuy mang dáng dấp cổ tích, nhưng lại chất chứa những cảm giác thời hiện đại. Họ luôn luôn dấn thân trên con đường đi tìm hạnh phúc, đi tìm cái Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối, để rồi nhận được những bài học cay đắng, xót xa. Với tuyên ngôn “Tôi căm ghét sâu sắc những kết thúc có hậu”, những truyện ngắn “giả cổ tích”, “giả truyền kỳ” của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết đều kết thúc không có hậu. Nó mở ra những dự cảm, những cảm xúc tái tê đằng sau khối cô văn lạnh lùng của một cây bút tỉnh táo, sắc nhạy, khiến cho người đọc cứ thế ngấm dần, ngấm dần và xoáy theo luồng xúc cảm cùng những nhân vật. Với giọng văn “lạnh”, tác giả đã thể hiện một thái độ dửng dưng tuyệt đối đối với nội dung tư tưởng được thể hiện trong tác phẩm. Qua giọng văn ấy, thế giới nhân vật, nội dung câu chuyện luôn hiện ra một chất trung thực, khách quan trước mắt người đọc. Người đọc được tách biệt hoàn toàn so với thiên kiến của tác giả. Độc giả được tự do phán xét nhân vật theo chủ kiến của mình. Trong nhiều truyện ngắn “Không có vua”, “Những bài học nông thôn”, “Tướng về hưu”… tác giả cũng nhập vào vai người kể chuyện nhân vật xưng “tôi” nhưng vẫn cố ý tách ra khỏi câu chuyện để đảm bảo tính khách quan. Để tạo ra được giọng văn “lạnh”, Nguyễn Huy Thiệp dùng nhiều câu trần thuật ngắn gọn, súc tích, mang đậm tính liệt kê. Nguyễn Huy Thiệp rất chuộng dùng câu đơn. Đối với loại câu đơn có xuất hiện thành phần phụ thì thành phần phụ thường được tách ra bằng dấu phẩy. Riêng câu ghép, các vế cũng được tách ra rạch ròi. Điển hình “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông nội tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải…” “Tướng về hưu”; hay “Cấn là con trưởng. Dưới Cấn có bốn em trai, chênh nhau một, hai tuổi. Đoài là công chức ngành giáo dục, Khiêm là nhân viên lò mổ thuộc Công ty thực phẩm, Khảm là sinh viên đại học. Tốn, con út, bị bệnh thần kinh, người teo tóp, dị dạng. Nhà lão Kiền sáu người. Toàn đàn ông” “Không có vua”… Những câu văn sắc lạnh dửng dưng như thế có mặt khắp các trang văn của Nguyễn Huy Thiệp. Nó tạo cho tác giả một nét riêng độc đáo về phong cách. Có thể thấy, hầu hết những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đều chứa đựng một hoặc vài lời triết lý của ông về văn chương. Điều đó chứng tỏ, Nguyễn Huy Thiệp là người hay trăn trở về văn chương và ý nghĩa của nó. Những triết lý đó, được phát biểu gián tiếp qua các nhân vật, qua tình huống truyện hoặc đôi khi phát biểu một cách trực tiếp. Trước đây, Nam Cao cũng thường thể hiện những quan niệm của mình trên trang viết của mình. Nhưng với Nguyễn Huy Thiệp, văn chương không đơn giản và rành mạch như Nam Cao. Cái nhìn của ông về văn chương có gì đó rất phức tạp – phức tạp như chính cuộc đời, khi thì “văn chương là thứ bỉ ổi nhất” “Chút thoáng Xuân Hương”, khi thì “văn chương có cái gì từa tựa lẽ phải” “Giọt máu”, khi thì “văn chương có nhiều thứ lắm. Có thứ văn chương hành nghề kiếm sống, có thứ văn chương sửa mình, có thứ văn chương trốn đời, trốn việc. Lại có thứ văn chương làm loạn” “Giọt máu”. Những triết lý đó đã phá vỡ cái khuôn mẫu, từ đó chính ông đã dùng ngòi bút và con mắt tinh tường của mình khiến huyền thoại hóa giải huyền thoại, dùng cổ tích để hóa giải cổ tích. Tinh thần “tự phê”, “tự nghiệm”, ý thức phản tỉnh và tra vấn đã làm nên sức mạnh và giá trị của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cái tâm của nhà văn, không gì khác hơn, chính là sự thức nhận về sứ mệnh “khơi gợi chân lý”, tra vấn nhân tâm của người nghệ sĩ. Đồng thời, tinh thần nghệ thuật hiện đại cũng không cho phép một sự ban phát chân lý cuối cùng, một tư thế độc thoại giữa nhà văn và bạn đọc. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mang màu sắc dân chủ và hiện đại bởi đó là những tác phẩm “mở”, ở đó, cả người viết và người đọc đều được đẩy vào một cuộc đối thoại lớn và nhà văn “để ngỏ cuộc đối thoại đó mà không đánh dấu chấm hết”. Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã để lại một khoảng trống rất lớn đối với văn đàn Việt Nam. Đối với nhà văn Nguyễn Văn Thọ “Nguyễn Huy Thiệp mất, tôi mất đi một bạn văn lớn – người chia sẻ với tôi rất nhiều về bút pháp, về vị trí và vai trò của nhà văn trong xã hội. Đồng thời, sự ra đi của anh, tạo ra một lỗ thủng đối với văn đàn Việt Nam”. Còn theo nhà phê bình Văn Giá “trước Nguyễn Huy Thiệp, văn học Việt Nam khác. Từ Nguyễn Huy Thiệp trở đi, văn học Việt Nam khác. Ông đã cắm một dấu mốc rất ghê gớm và quan trọng vào đời sống văn học Việt Nam. Trong đổi mới, có những đổi mới từ từ, từ người này đến người kia. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện năm 1987, đã gây nên một dấu ấn đậm nét. Ông tạo ra một cảm quan, cái nhìn mới về đời sống, dẫn đến một hướng viết mới, một ngôn ngữ mới, một cách biểu đạt mới trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có sứ mệnh đổi mới văn học; và ông đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình”. Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng rất đau buồn khi nền văn học nước nhà mất đi một cây đại thụ. Theo ông “thời kỳ 1985-1996, ở mảng truyện ngắn, không ai viết hay hơn Nguyễn Huy Thiệp. Giọng văn của ông có chất riêng, ngắn gọn, sắc nét, không dông dài. Điều mừng là cuối đời ông có tên trong danh sách xét tặng giải thưởng Nhà nước. Đó là ghi nhận xứng đáng cho tài năng của ông”. DIỆP NINH/ TTXVN Xem thêm Thơ 1-2-3 Đặng Ngọc Tam Giang Tận cuối sông chờ… ta gào sóng Huế là em! Nhà thơ Giang Nam đã về với “Quê hương” xanh thẳm Thơ 1-2-3 Lê Lệ Thủy Trang giấy trắng cần cây bút lành viết ý đẹp lời hay Chùm thơ 1-2-3 Phạm Tuyết Hạnh Đường vắng người thưa hun hút phố buồn Cảm thức về phái đẹp trong thơ Hàn Mặc Tử
phong cách nguyễn huy thiệp